Các phương pháp định giá trong ngành Dầu khí (P2)

Các yếu tố định giá công ty trung nguồn

Cũng như các doanh nghiệp dầu khí khác, các biến thể thông thường của các phương pháp định giá dựa trên thu nhập và phương pháp định giá dựa trên giá thị trường có thể thích hợp trong việc định giá các công ty E&P trung nguồn. Tuy nhiên, điều quan trọng là hiểu rõ các đặc điểm về tài sản vô hình và mối quan hệ với các khách hàng Thượng Nguồn của các công ty Trung Nguồn.

Các tài sản vô hình có thể xác định phổ biến nhất là các mối quan hệ khách hàng theo hợp đồng. Các công ty trung nguồn ký hợp đồng nhiều năm với các công ty thượng nguồn, các điều khoản có thể kéo dài đến 20 năm (và lâu hơn, trong một số trường hợp).

Cần đầu tư đáng kể để phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết để vận chuyển dầu và khí đốt. Sự gián đoạn trong bất kỳ phần nào của hệ thống này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi nhuận. Để giảm thiểu rủi ro này, các công ty trung nguồn yêu cầu đảm bảo gắn với sản xuất trong suốt thời gian của các hợp đồng dài hạn mà họ ký với các công ty thượng nguồn. Sự đảm bảo này thường được gắn với diện tích đang thăm dò. Nghĩa là, để đổi lại việc xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết, công ty thượng nguồn đảm bảo rằng tất cả hoạt động sản xuất từ ​​một diện tích đang được thăm dò nào đó sẽ chỉ đổ về công ty trung nguồn mà hợp đồng được ký kết. Các hợp đồng diện tích dành riêng cũng có thể bao gồm các đảm bảo về khối lượng tối thiểu trong một khoảng thời gian nhất định.

Khi đánh giá mức độ rủi ro của các mối quan hệ hợp đồng nói trên, điều quan trọng là phải hiểu cấu trúc phí của các hợp đồng cơ bản, được trình bày dưới đây.

Hợp đồng phí cố định: Phí được tính trên khối lượng hàng hóa được vận chuyển, lưu kho và tập kết, giống như thu phí đường bộ. 

Hợp đồng phí cố định: Một khoản phí cố định hàng tháng được đảm bảo cho việc giữ nguyên công suất, bất kể có sử dụng hết hay không.

Cam kết khối lượng tối thiểu (MVC): Các hợp đồng MVC đảm bảo một số khối lượng vận chuyển tối thiểu. Nếu khối lượng vận chuyển giảm xuống dưới MVC, các chủ hàng được yêu cầu thanh toán thiếu hụt.

Giữ lại toàn bộ hợp đồng: Công ty trung nguồn chế biến khí tự nhiên (NGL) giữ lại các lượng khí được khai thác và trả lại khí tự nhiên đã qua xử lý, hoặc giá trị của khí tự nhiên, cho nhà sản xuất. Theo các hợp đồng như vậy, công ty trung nguồn được lợi khi giá NGL tăng và giá khí tự nhiên giảm.

Hợp đồng phần trăm tiền thu được: Công ty trung nguồn thay mặt nhà sản xuất thu thập và xử lý khí thiên nhiên, bán khí cặn và NGL được sản xuất, và chuyển phần trăm tiền thu được đã thỏa thuận cho nhà sản xuất trong khi giữ lại phần còn lại. Mặc dù các công ty trung nguồn vận hành tài sản theo cấu trúc ký quỹ dựa trên hàng hóa có thể kiếm được nhiều tiền hơn trong thời kỳ giá hàng hóa cao, nhưng dòng tiền của họ dễ biến động hơn so với các công ty tập trung vào việc sở hữu tài sản được hỗ trợ bởi các hợp đồng có phí hoặc thuế quan quy định.

Các yếu tố định giá công ty hạ nguồn và dịch vụ dầu khí

Các biến thể thông thường của các phương pháp định giá dựa trên thu nhập và định giá dựa trên thị trường (ví dụ, bội số dựa trên DCF và EBITDA) có thể thích hợp trong việc định giá các công ty hạ nguồn. Mặc dù giá hàng hóa dầu khí giảm tác động bất lợi đến việc định giá các công ty E&P nhưng việc định giá các công ty hạ nguồn (chẳng hạn như các nhà máy lọc dầu) thường được hưởng lợi từ giá nguyên liệu hàng hóa giảm. Dầu thô mà các công ty E&P sản xuất đóng vai trò là nguồn cung cấp nguyên liệu chính cho các công ty hạ nguồn, và giá nguyên liệu đầu vào thấp hơn có thể dẫn đến chênh lệch giá cao hơn đối với các công ty hạ nguồn. Chênh lệch giá là sự chênh lệch giữa giá dầu thô và giá các sản phẩm dầu mỏ được chiết xuất từ dầu thô – tức là biên lợi nhuận mà một nhà máy lọc dầu có thể mong đợi khi nó tách dầu thô thành các sản phẩm. Do đó, trong môi trường ngành dầu khí suy yếu, các công ty hạ nguồn dự kiến ​​sẽ được hưởng lợi từ chênh lệch giá cao hơn, do đó sẽ làm tăng định giá của các công ty này. Một yếu tố quan trọng khác ảnh hưởng đến chênh lệch giá là tỷ lệ tương đối của các sản phẩm dầu mỏ khác nhau được sản xuất bởi một nhà máy lọc dầu. Sự pha trộn của các sản phẩm tinh chế cũng bị ảnh hưởng bởi hỗn hợp dầu thô dùng để chế biến trong một nhà máy lọc dầu. Dầu thô nặng khó tinh chế thành các sản phẩm nhẹ hơn như xăng.

Cũng giống như các công ty hạ nguồn, các biến thể thông thường của các phương pháp tiếp cận Thu nhập và Thị trường (ví dụ, bội số dựa trên DCF và EBITDA) có thể được sử dụng để định giá các công ty dịch vụ dầu khí. Giống như các công ty E&P, giá hàng hóa dầu khí giảm làm giảm định giá của các công ty dịch vụ dầu khí. Trong môi trường giá hàng hóa thấp, các công ty E&P đã cắt giảm đáng kể ngân sách chi tiêu liên quan đến việc thăm dò và sản xuất dầu khí. Việc cắt giảm ngân sách này tác động trực tiếp đến nhu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm của công ty dịch vụ dầu khí. Mặc dù sự biến động của giá hàng hóa ảnh hưởng đến định giá của các công ty dịch vụ mỏ khí nói chung, nhưng có một số công ty nhất định có thể bị thiệt hại nhiều hơn các công ty khác do ngân sách chi tiêu của E&P giảm.

Kết luận

Mặc dù ba phương thức định giá tiêu chuẩn là dựa trên thu nhập, thị trường và tài sản – có thể áp dụng cho các công ty trong ngành dầu khí, nhưng mỗi phân khúc trong chuỗi giá trị ngành đều có các hoạt động và đặc điểm riêng biệt, do đó sẽ có những cách tiếp cận và phương pháp nhất định để định giá các doanh nghiệp này phù hợp hơn so với những phương pháp khác. Ngoài ra, cần có những sửa đổi đối với một số phương pháp và thước đo định giá được áp dụng, tùy thuộc vào vị trí trong chuỗi giá trị ngành dầu khí mà công ty hoạt động.

TIN TỨC THỊ TRƯỜNG